Bỏ qua nội dung

[Good Omens/Transfic] Chắp Đôi cánh, Nâng Đàn hạc, Lắp Con Tim (tất toàn)

tumblr_pt2ubylslv1qf6m81o1_1280
(c) rebelflet
Tựa đề: Add Wings, Add Harp, Add Heart (all set) | Chắp Đôi cánh, Nâng Đàn hạc, Lắp Con Tim (tất toàn)
Tác giả: 
Giới hạn: G
Fandom: Good Omens (TV)
Nhân vật: Crowley/Aziraphale
Người dịch: JM
Tóm tắt:
“CHÚNG TA KHÔNG PHẢI VỢ CHỒNG.”
“Chúng ta đích thị là vợ chồng,” Aziraphale cự lại.
Crowley lử khử như đang bực bội lắm rồi hậm hực bỏ đi.
Chưa đầy một phút sau đã thấy hắn tò tò quay lại, “Tính ra ta không có vinh hạnh ngươi hay làm mấy điều gì gì lũ người hứa hẹn với nhau nhé.”
“Mấy điều thề nguyện. Còn anh đã cho tôi bao niềm vinh hạnh với sự hiện diện của anh rồi, thân mến ạ.”
Crowley nhận ra hắn với Aziraphale đều hành xử như một cặp đôi đã cưới lâu năm. Một cơn khủng hoảng nhẹ xảy tới. Đường ngọt sâu răng.

 


 

 

Chắp cánh, Cầm Đàn, Lắp Tim (tất toàn)

Tôi xin nhận người…

Crowley đã kết luận rằng cái ả Anathema ấy phải lãnh đủ trách nhiệm. Cùng với tên thợ săn phù thủy mặt-mo đần đeo kính. Và Aziraphale nữa. Người cuối cùng hắn đổ lỗi là do thói quen chứ chưa chắc đã vì những yếu tố khác. Qua hằng hà thế kỷ, Crowley đã quen mui gán tội lên đầu Aziraphale cho mọi khổ hạnh, dù nhỏ nhặt đến nhường nào, mà hắn phải chịu. Từ mấy cơn mưa bất chợt cho tới cà phê bỏng miệng không uống nổi.

Trọng điểm là, cái tình trạng bất như ý này của hắn chắc chắn do một trong ba ứng cử viên trên gây ra, Crowley dám cam đoan như thế. Hắn cam đoan hai ứng cử viên đầu tiên lãnh nhiều trách nhiệm nhất.

Cái đám cưới chết bầm đã bắt đầu tất cả.  Nói chuẩn hơn, là cái đám cưới của hai họ Pulsifer-Device. Và một tên thiên thần đầu nhồi bông đã hành hạ (theo nghĩa sát sao nhất mà một thiên thần đạt tới được) Crowley đến mức phải đi dự.

“Ta dám gần chắc rằng váy phù dâu do dòng giống nhà ta phù độ ra,” Crowley hạ giọng khi người đứng trên bục đầu sắp sửa tuyên thề hay sao đó. Crowley được lập trình để tắt chức năng nghe ngóng mỗi khi có lời hứa non hẹn bể nào đó sắp được thốt ra. Hắn không có đủ mô tơ để giải mã mấy thứ đó nghen. Nước đổ đầu vịt, đàn gảy tai trâu, hết. Ngay cả trước Khởi Nguyên, đầu hắn cũng đã đầy ắp những cái thơ thẩn nhàn nhã mơ hồ rồi.

Aziraphale xùy hắn.

Crowley vẫn thao thao bất tuyệt. Hắn cũng dở luôn cái khoản nghe lời kẻ khác. “Thiên thần này, nghĩ thử mà xem; có đứa chọn cho ngươi một cái đầm rất đắt đỏ, xong ngươi lại vẫn phải trả tiền mua cái đầm đó, rồi cái đầm xấu chó đủ đường và không những khiến ngươi trông rởm đời kinh khủng mà còn vừa lùn vừa mập vừa kém sang đứng cạnh cô dâu trong cái ngày trọng đại của đời cô ta, và rồi ngươi sẽ đéo bao giờ mặc lại nó nữa nhưng ngươi vẫn vương vấn cái của nợ ấy trong suốt mười năm tiếp theo với niềm hy vọng hão huyền rằng nó sẽ không còn khiến ngươi trông vừa lùn vừa béo vừa rởm đời so với đứa đứng cạnh ngươi mỗi lần ngươi bận nó lên người nữa.” Hắn xì giọng khi phát âm chữ ‘s’ của từ ‘kém sang’, không thể ngăn nổi. “Nói ta nghe xem có đúng đây là phát kiến vĩ đại thần sầu điên rồ nhất mà ngươi từng thấy phe bọn này làm ra không.”

Aziraphale lấy cái tờ giới thiệu chương trình đang cuộn trong tay ra đánh nhẹ vào hắn.

Crowley vẫn hạ giọng liến thoắng, chỉ nói cho Aziraphale nghe là chính, dù thật tâm hắn cũng chẳng màng quan khách hai họ xung quanh làm gì. Crowley chẳng màng việc làm lô bên kia xù lông.

Dù sao thì cũng chỉ có mỗi một ổ lông mà hắn mong muốn được làm xù, cái ổ đấy đang ngồi lù lù cạnh hắn đây, bận trên mình bộ com lê màu kem nhạt với xám bồ câu và gồng hết cả lên để giả vờ bơ hắn.

“Mà không biết bên nào nghĩ ra trò cưới hỏi, nhỉ. Một công cụ tra tấn khéo léo nếu được tăng xuất với cường độ thích hợp, song có hơi lằng nhằng và trang trọng nên chắc là phát kiến của lô nhà ngươi rồi…”

Lần này Aziraphale dậm thịch lên chân hắn một cái, không đau lắm, nhưng rất đáng ngạc nhiên. “Người ta thích đám cưới được chưa,” vị thiên thần lầm bầm trong cổ họng, “Hai linh hồn thề nguyện sẽ ở bên nhau tới cùng trời cuối đất, quả là tốt đẹp.”

Crowley không còn tâm trí nào châm chích vấn đề sau câu nói đó. Hắn chỉ còn biết ép bẹp xuống ghế, ra vẻ như một ngôi sao điện ảnh bất cần phép tắc và có vẻ thành công.

Hắn bắt gặp Aziraphale lén nhìn hắn qua khóe mắt và tặng hắn một nụ cười mỉm ngọt ngào. Làm ngực Crowley quặn hết cả lên. Hắn ghét cái cảm giác đó.

Hắn chìm ngày một sâu hơn vào cái ghế và cau mày nhìn bồn hoa. Cần có đứa nghiêm khắc dạy dỗ lại đống hoa đỗ quyên kia. Hoa hoét gì trông đến là ủ dột.

Hậu đám cưới, trong lúc Crowley đang lảng vảng quanh rìa bữa tiệc chiêu đãi và Aziraphale đang *rùng mình* nói chuyện với mọi người khi suy nghĩ ấy nảy ra từ óc hắn.

“Hai linh hồn thề nguyện sẽ ở bên nhau tới cùng trời cuối đất.”

Quỷ tha ma bắt. Đó chính là việc hắn và đứa thiên thần kia đã làm không lệch li nào.

Bộ hắn đã kết hôn rồi ư? Với thiên thần kia ấy?

Thế thì còn ra thể thống gì nữa.

Xin hứa một lòng thủy chung…

Crowley quyết định sử dụng phương cách giải quyết nan đề hữu hiệu nhất của hắn: ma men. Uống say mù mắt rồi nghiền ngẫm vào ngày mai sau, khi và chỉ khi hắn chọn tỉnh táo lại. Say xỉn có một lợi thế khác biệt, làm người ta hoan hỉ vô bờ trong lúc hơi men còn hiệu lực và khiến mọi thứ xung quanh trở nên cực kỳ vui nhộn khi được quan sát sau tấm màn che dệt từ một chai sâm banh cùng vài hũ rượu bia ủ tại nhà của ngài Young.

Cha của kẻ phản chúa quả không làm người ta thất vọng trước kho tàng cồn rượu. Crowley thầm ghi nhớ.

Tất nhiên, đến lúc lũ người ra về hết thì hắn cũng xỉn quắc cần câu còn Aziraphale thì đang xua lùa (à há! Xua lùa, chăn dắt… giáo dân…đâu đây vang vọng một trò đùa về thánh thi) hắn về chỗ đậu con Bentley II, Crowley thầm nhủ ‘kệ mẹ đi’ rồi trút khỏi lốt phàm nhân của mình, trườn thành xà thù chỉ để chọc cho Aziraphale ré lên và vung vẩy tứ phía cố đỡ lấy cái cuộn thân dây loằng ngoằng của hắn.

“Crowley à,” Aziraphale giận ra mặt, rắn Crowley cũng có bé bỏng nhẹ cân gì đâu, “Bộ anh nhất định phải như thế này hả?”

Crowley khè y, giả vờ không biết nói chuyện ở dạng rắn mặc dù điều đó là sai sự thật (vui lòng đọc thêm Sáng Thế ký để biết thêm chi tiết) và cuộn mình quanh phần thân trên mềm mại, ấm áp của Aziraphale và chóc đầu rụi vào trong khe cổ Aziraphale, buộc cái nơ ngu si phải nới lỏng.

Aziraphale lại càu nhàu, “Thật luôn Crowley?”

Crowley siết chặt mình rắn hơn.

Aziraphale ráng gỡ hắn ra nhưng cố lắm cũng chỉ nửa vời. Crowley rất hiểu thiên thần của hắn (à không phải thiên thần chết bầm của hắn, phước lành ban hắn đi!), và biết rằng sinh thể đã che chở hắn bằng đôi cánh của mình trong trận mưa đầu tiên sẽ không đời nào đánh rơi hắn, ngay cả khi hắn đang là một con rắn nát rượu đi chăng nữa.

“Ôi chà, hay là anh cứ…” Aziraphale là người duy nhất có cái tính hay thở dài mỗi ngày mà Crowley biết.  Tuy nhiên cũng có thể do những người đồng hành cùng vị thiên thần khiến y cứ phải thở dài nhiều mãi như vậy.

“Lúc vào xe thì biết điều mà buông người ta ra nhé,” Aziraphale bảo hắn khi bắt đầu chui vào con Bentley II, “Tôi không biết lái cái thứ ô tô tân tiến kiểu như này đâu.”

Kể từ ngày hôm nay…

Ngày hôm sau Crowley thức dậy đầy tỉnh táo. Hắn quyết định tình thế này thật kinh khủng nên phải đi ngủ ngay nhằm đối phó với hiện trạng. Hắn vừa mới dành mười một năm và mấy ngày cực áp lực để ngẩng cao đầu giải quyết vấn đề cấp độ tận thế.

Mệt muốn trôi sông.

Hắn xứng đáng được lười. Hắn có thể đối mặt với vấn nạn hình như hắn đã kết hôn hợp pháp với một thiên thần lúc nào tỉnh dậy. Nếu ăn may, hắn sẽ ngủ thêm một thế kỷ nữa và vấn nạn sẽ không còn nhức nhối vào lần kế tiếp hắn chọn đối mặt với thế gian.

Thực ra Crowley đã không ngủ thêm được một thế kỷ nữa. Hắn chỉ ngủ thêm mười hai tiếng đồng hồ trước khi điện thoại réo ầm lên làm hắn thức giấc và Aziraphale nài nỉ hắn qua giúp y chuyển giúp đống đổ nát âm ỉ nơi cửa hàng sách yêu quý của y từng sừng sững.

Chết rồi, Crowley làm sao từ chối được đây? Hắn là quỷ chứ không phải một thằng lỗ đít.

Khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan…

Crowley ngạc nhiên trước cảm giác khủng khiếp vuột qua tâm trí khi bước vào ngưỡng cửa và nhìn thấy tàn tích nghi ngút khói của nơi từng là một tượng đài bụi bặm của nền văn học xuyên thời. Không phải vì, đáng ngạc nhiên thay, chuyện khói ám âm ỉ – mặc dù bản thân hắn ghét, như một loại luật bất thành văn, bị dính bồ hóng trên bộ đồ của mình. (Lý do tại sao dần dà hắn không lang thang dưới Địa ngục nhiều nữa – thật khó để trở thành một người ăn mặc đàng hoàng khi có tro và phân rữa khắp nơi).

Lần cuối cùng hắn tới đây, thế giới đang diệt vong và quan trọng hơn, hắn nghĩ Aziraphale đã chết và điều đó có nghĩa là thế giới của hắn đã diệt vong. Ký ức cuối cùng của hắn về nơi này là một hỏa ngục rực sáng tứ bề khi hắn gào thét khản cổ, phổi đầy một bồ thịnh nộ bất lực và tuyệt vọng hơn cả giây phút hắn bị đọa khỏi Thiên đường.

Song, lần này Aziraphale vẫn ở đây. Vẫn tên thiên thần mụp núp trong cái áo khoác y đã ấp ôm hơn một thế kỷ nay. Vẫn chiếc áo len cũ kỹ sồ sề và cái nơ nhỏ. Những lọn tóc nhợt nhạt của y dính bồ hóng lẫn tro tàn, nhưng dường như chỉ khiến dáng hình nhợt nhạt của y sáng bừng trước vẻ tàn phá xám hóa xung quanh cả hai.

Đây rồi thứ cảm giác xoắn vặn cuộn trào trong lồng ngực Crowley.

Hắn ghét cái cảm giác ấy kinh khủng, ghét thật.

“Tìm ta hả thiên thần?” hắn trều giọng khi bước qua cửa, hắn nhận ra tàn tích từ gỗ mục còn nhiều hơn lúc hắn ở đây nữa.  Đúng, đến giờ tạo khoảng cách cảm xúc rồi. Hắn đút tay vào túi quần và đảm bảo thái độ vênh váo hơn so với bình thường khi hắn đi đến nơi Aziraphale đứng, sẵn sàng nhận sát thương.

Aziraphale mỉm cười như thể y rất vui khi được gặp Crowley vậy, mà thế thì lạ lắm thay? Aziraphale trông…khang khác kể từ sau phi vụ Tận Thế Hụt. Có vẻ an yên hơn. Như thể một câu hỏi lớn trong lòng y đã được trả lời triệt để.

Và y cứ nhìn Crowley với cặp mắt mềm dịu như thể y chỉ chực chờ tên quỷ này bắt được tín hiệu nào đó và hắn đang sốt ruột chết đi được.

Crowley ghét nhất là cảm thấy như một thằng học sinh cá biệt chậm hiểu hạng bét. Dù trong thực tế hắn chưa bao giờ là một đứa trẻ và cái hạng duy nhất hắn từng biết là cái hạng người ta có thể đặt mua khi lên tàu du lịch.

“Thân mến ơi, tôi có cái này muốn cho anh xem.”

Mới mẻ nhỉ. Ngày trước lúc nào cũng là ‘chàng thân mến của tôi ơi’ như trong mấy cuốn sách về một tên quản gia Jeeves gì đó và lão chủ đần độn của gã ta. Giờ tinh giản còn có ‘thân mến ơi’ thôi và Crowley thấy rất chi là bực dọc với chiều hướng phát triển đó, đặc biệt là khi chuyện này có chút liên đới tới vấn đề tim mạch mới được phát giác của hắn.

“À ừm, rồi rồi, nói tiếp coi,” Crowley ra một cử chỉ rất kịch như thể hắn chẳng để một ly tâm nào vào lý do vị thiên thần kéo hắn tới đây. Hắn liếc nhìn xung quanh trong lúc Aziraphale lúi húi làm bất cứ cái gì cho Bất Ngờ Lớn mà y định thông báo. “Ta cứ tưởng ngươi sẽ vật vã hơn trước tất cả mất mát này. Công trình cả đời của ngươi bị một mồi lửa nuốt trọn.”

“Tôi buồn lắm mà, nói thật đấy.” Rõ ràng, ngay cả một Aziraphale “thân mến ơi” đầy mới mẻ và tiến bộ cũng không thể tự mình bảo ‘anh nói chí phải’ với Crowley, “Nhưng rồi,” vị thiên thần gạt hết cái bàn đã bị phá hủy sang một bên, để lộ ra cánh cửa bẫy che lấp tất cả những thứ ẩn giấu bên dưới tàn dư của tấm thảm, “Tôi nhớ ra cái này.” Y kéo cánh cửa bẫy và cúi xuống để lấy thứ gì đó từ bên trong.

Crowley, bất chấp bản thân, lượn lờ lại gần hơn, rồi lại bất chấp chính mình, tò mò trỗi dậy.

Aziraphale, khó chịu một chút với nỗ lực (thực sự, bọn thiên thần với cái trò không chịu búng ngón tay của chúng nó để hoàn thành công việc…à khoan, thôi kệ đi, Crowley chắc rằng Gabriel sẽ búng tay và chờ cả thế giới tới phục dịch gã, còn niềm yêu thích đối với việc làm mọi thứ theo cách của con người thuộc về mình Aziraphale), kéo ra… một hộp đạn chống cháy. Khoảng đệ nhị thế chiến, nếu Crowley nhớ đúng.

“Ngươi định làm gì với cái thứ đó?” Crowley hỏi, bất cần ra mặt, nhưng tính tò mò của hắn đã leo lên đến đỉnh điểm.

Aziraphale ngượng ngùng cười với hắn, “Ý chà, cũng chẳng có gì ghê gớm khủng khiếp đâu mà.” Y nhìn xuống chiếc hộp, “Chắc anh lại nghĩ nó đần độn và ủy mị lắm, nhưng mà, a được thôi.”

Y mở chiếc hộp, bên trong là những cuốn sách Crowley đã cứu được bên bờ nhà thờ bị đánh bom trong thời Blitz. Những cuốn sách tiên tri mà Đức quốc xã muốn khai thác và những cuốn táo bạo hơn chúng muốn đốt trụi.

Aziraphale nhẹ miết một ngón tay lên gáy sách. “Tôi chỉ nghĩ, nếu đám sách đã sống sót được qua một mồi lửa, chúng xứng đáng sống qua nốt lần tiếp theo,” y cười khinh khích, “Với lại tôi cũng nghĩ bất cứ thứ gì tụi Phát xít muốn phá hoại đều đáng sống một đời yên vui, anh thấy sao?”

Crowley chết lặng. Đây là một trạng thái rất hiếm có đối với hắn và hắn không đặc biệt thích thú. Sự mới lạ này đủ gây cười, hắn đồ vậy, nhưng đó không phải là trải nghiệm dễ chịu, chết lặng bởi dòng cảm xúc bất chợt.

Hắn thọc tay sâu vào túi quần và gồng vai lên đến tận mang tai và đu đẩy trên gót chân. “A, tốt thôi.” Sau đó hắn không biết phải nói gì tiếp, nhưng điều đó dường như không làm vị thiên thần phiền lòng, người đã bắt đầu đọc qua một trong những cuốn sách của y.

“Ta nhớ cuốn đó,” Crowley buột miệng, “Đó là một cuốn sầu não khủng khiếp từ những năm hai mươi về sự tàn nhẫn của chiến tranh.”

Aziraphale ngẩng đầu lên nhìn hắn, “Tôi nghĩ rằng tất cả những cuốn sách về chiến tranh từ những năm hai mươi đều như thế, thân mến à.”

Crowley loại bỏ ý niệm này, “À thì, vài người không biết đánh giá cao một thứ phế liệu hay.”

“Anh ghét chiến tranh mà.”

“Thì là do ta lười quá không trân trọng được thôi. Giờ xê ra, ta muốn coi những thứ ta đã dùng phép giữ được cho ngươi.”

Khi sung sướng cũng như lúc đói khổ…

Crowley không phải một thằng hèn, nên hắn không trốn tránh. (Ngoại trừ việc hắn đích thị là một con rắn, bản năng khiến hắn nằm lặng chờ đợi và chỉ tấn công khi nguy hiểm đường hoàng tới gào vào mặt hắn). Crowley dành chút thời gian ghé thăm đứa con đỡ đầu hụt của mình – kẻ phản chúa.

Adam mừng ra mặt khi được gặp hắn, nhóc ta than thở rằng kể từ khi Anathema và ông anh thợ săn phù thủy của chị ấy kết hôn, cả hai người chỉ quanh quẩn quấn lấy nhau nhiều hơn là giải đáp thắc mắc cho hội thanh thiếu niên tò mò. Bây giờ khi hai anh chị không còn chú ý đến chúng nữa, chúng lại phải quay sang bố mẹ nhờ giải đáp mà bố mẹ thì đâu có được đào tạo để xử lý những câu hỏi từ đám trẻ giàu trí tưởng tượng.

Crowley phải làm rõ rằng hắn hơn hội người lớn kia những mấy ngàn năm tuổi, nhưng Adam gạt chuyện này sang một bên.

“Chú thì khác rồi,” kẻ phản chúa nhún vai.

Crowley quyết định chấp nhận và bước tiếp.

“Thế,” Adam hỏi. Nhóc ta đang bước dọc trên bờ gạch thấp bao quanh tường rào nhà hàng xóm, tay tung tẩy. Nhìn chung, nhóc ta đã giải quyết vấn đề tận thế một cách xuất sắc, “Bao giờ cánh của cháu mới mọc ạ?”

Crowley rướn một bên mày, “Hả?”

“Bao giờ cháu mới có cánh ấy?” Adam hỏi, “Cháu là kẻ phản chúa, còn chú là ác quỷ. Chú có cánh nè. Cháu nghĩ cuối cùng cánh của cháu cũng phải nhú ra thôi ấy. Thế chú có biết bao giờ không?”

Crowley chớp mắt nhìn thằng nhóc, hắn thầm cảm ơn cặp kính râm. Nếu mình giấu được đôi mắt khỏi người đối diện trong cuộc trò chuyện thì dù chẳng bỏ chút công sức nào, trông mình vẫn sẽ ngầu tới bến.

“Sao mà ta biết được?” Crowley loạng quạng, “Nhóc là kẻ phản chúa duy nhất ta đây từng biết. Ngày trước có một thằng cu này bọn ta tưởng nhầm là nhóc – tên nó là Warlock, sống ở Mỹ. Hóa ra chỉ là một thằng nhóc người thường.” Crowley xua cái suy nghĩ ấy ra khỏi đầu, “Tóm lại, nhóc là đứa duy nhất trên trần đời này. Chưa bao giờ có một kẻ phản chúa nào khác ngoài nhóc cả. Ta không biết chuyện gì sẽ xảy ra với nhóc nữa. Nhóc tự ước ra một đôi cánh cũng được, hoặc chờ xem có cái gì,” hắn quơ tay, “mọc ra chăng.”

“Hừm,” Adam ngẫm nghĩ, “Cháu thấy vậy cũng hay á.”

“Hay ở chỗ nhóc không biết trước gì cả á?”

“Vâng,” Adam cười toe, “Cháu thích một tương lai bất định hơn. Một ý niệm tốt lành.”

Crowley nghiêng đầu, bị ý nghĩ ấy bủa vây. Tương lai bất định, tương lai có thể mang bất cứ hình thù nào. Rằng tên nhóc-bán-nhân-loại kia có thể mọc cánh. Rằng một thiên thần có thể tái xây dựng lại tiệm sách bị hủy hoại của y từ con số không. Rằng một ác quỷ có thể chôn chân ở nơi hắn mong mỏi, ngập ngừng xoay quanh quỹ đạo của một thiên thần, uống rượu sâm banh và ăn tối tại Ritz.

Quả là một ý niệm tốt lành.

“Vẫn mong chú mày giữ cho rừng nhiệt đới phát triển,” Crowley lẩm bẩm, “ta thích một tương lai không có nóng lên toàn cầu.”

Khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe…

Crowley đã thử uống rượu, ngủ ngày, bỏ chạy. Vô dụng toàn tập. Còn bây giờ vị thiên thần đang trú ngụ ở căn hộ của Crowley trong lúc tái dựng lại hiệu sách nên hắn cũng mất luôn chỗ trốn tại gia.

Hắn quyết định phải thật bận bịu.

Phiên bản bận bịu điển hình của Crowley bao gồm hành hạ những nhân viên tiếp thị qua điện thoại, truyền cảm hứng cho những mối đe dọa nhỏ, hàng ngày như việc viết tên sai chính tả của Starbucks và quản lý vườn cây của hắn. Thêm cả làm phiền Aziraphale.

Nhưng với sự bế tắc sau hậu quả của Tận Thế Hụt, Crowley thấy việc lan tỏa cái ác trong khu vườn của mình cũng nhạt đi luôn. Nên hắn hạn chế bắt nạt tụi cây, cái đám xanh xanh run rẩy xấu xí ấy.

Hắn đang đi lòng vòng trong nhà kính, lên mặt với đám cây yếu ớt khi Aziraphale chết bầm từ đâu ló vào chen ngang.

“Em đang rất kiên trường đúng không? Ừ, em mạnh mẽ lắm,” Aziraphale đang nói chuyện với một cây xương rồng nhỏ lún phún gai, “không cần gồng lên đâu. Trông em hơi nhợt nhạt. Không sao đâu, rồi em sẽ khá lên thôi mà. Em có muốn dùng chút nước không?”

Crowley đằng hắng với vị thiên thần và bắt đầu nhịp nhịp chân. “Thiên thần kia,” hắn gầm lên.

“Gì?” Aziraphale hỏi, rồi quay lại với bé xương rồng, “ừm, cơ mà thôi, trông em có vẻ cũng được tưới đủ nước rồi, ta không muốn làm em chết úng, tội em quá.”

Xương rồng nhỏ chưa gì trông đã hí hửng hẳn lên. Quân phản bội.

“Ngươi nuông chiều bọn cây làm gì hả?” Crowley rít lên.

“Chiều đâu mà chiều,” Aziraphale quạc lại hắn, vuốt ve những chiếc lá của cây lô hội, “Động viên tích cực nhau chút thì hại ai nhỉ.”

“Hạiiiiii tính kỷ luậtttttt mà ta đang cố thắtttttt chặtttttt được chưa.”

Aziraphale lại nhìn hắn đầy trìu mến và Crowley hậm hực kinh khủng. “Anh có nghĩ, nếu bất kỳ ông bà cấp trên nào của chúng ta đều cố gắng nói chuyện một cách văn minh, lịch sự, chúng ta sẽ bị đẩy tới tận diệt thực sự không?”

“Chẳng phải đó là một phần của ‘cái kế hoạch bất khả con mẹ nó phạm’ hay sao?” Crowley gầm gừ; ngắt xéo một cây lục thảo trổ đang ngả lòng vào dưới tay hắn.

Aziraphale trầm ngâm, “Tôi cho rằng chúa muốn chúng ta tìm ra cách giải quyết vấn nạn của mình mà không phải dùng đến vũ lực kiểu cũ,” y nở một nụ cười nữa với Crowley, “Nhưng chắc tôi thì dễ bị thiên kiến làm mờ mắt lắm, lão nhân ạ.”

Crowley chỉ biết gào rống lên và lấy bình phun nước xịt tá hỏa vào Aziraphale.

Còn dĩ nhiên là Aziraphale chỉ bĩu môi và ngân nga và tỏ ra giận dỗi vì quần áo bị ướt và chỉ vậy cũng suýt đủ xua tan bóng tối của việc chiêm nghiệm.

Để yêu thương và tôn trọng…

Cuối cùng Crowley cũng phát rồ vào một ngày mưa tầm tã và Aziraphale nhất quyết không chịu làm phép cho ráo trời nên cả hai mắc kẹt trong nhà cùng nhau và Crowley còn không có nổi một giấc ngủ tử tế với cả đống lý trấu bắt đầu bằng việc vị thiên thần đang ngồi trên ngai vàng kịch nghệ của hắn ở phòng bên cạnh mà hào hứng lướt eBay tìm mua các món đồ cổ bằng một trong những cái laptop mà Crowley ghét nhất.

Crowley bổ nhào khỏi trường kỷ rồi xồng xộc vào phòng vị thiên thần để tuyên bố, rất tự nhiên và hùng hồn, “CHÚNG TA ĐÉO PHẢI VỢ CHỒNG.”

Aziraphale ngước lên tĩnh tò nhìn hắn như bị cận. Ai biết được y đã ngồi dòm màn hình máy tính được bao lâu rồi, cái tên khùng này. Mắt y hiện vằn máu bởi vì đạo đức không bao giờ ngủ quên và những thứ đó khiến thân thể phàm tục đang mong được ngơi nghỉ của y chết mục.

“Chúng ta đích thị vợ chồng,” Aziraphale cự lại.

Crowley lử khử như đang bực bội lắm rồi hậm hực bỏ đi.

Chưa đầy một phút sau đã thấy hắn tò tò quay lại, “Tính ra ta không có vinh hạnh ngươi hay làm mấy điều gì gì lũ người hứa hẹn với nhau nhé.”

“Mấy điều thề nguyện. Còn anh đã cho tôi bao niềm vinh hạnh với sự hiện diện của anh rồi, thân mến ạ.”

Crowley gào tướng lên rồi lúi chúi ra khỏi cửa. Hắn hét vào lá một cây dương xỉ còm cõi một lúc rồi lúi húi trở lại, “còn cái vụ ‘kể cả trong những thời khắc tốt lành lẫn tăm tối’ thì sao, hửm?”

“Tôi tốt lành, còn anh thì tăm tối,” Aziraphale chòng chọc đáp, “ngay từ thuở hoang sơ chúng ta đã như vậy rồi mà.”

“Ôi dào toàn nói xàm,” Crowley gạt đi, biến mất hút lần nữa, rồi lại thò đầu vào bình luận, “Còn ngươi đem thanh kiếm của mình đi cho ngay từ thuở hoang sơ. Giờ đứa nào mới là ‘tốt’ hả?”

“Một cử chỉ đầy hào phóng nhé,” Aziraphale nghiêm nghị đáp.

“Ọe,” Crowley giễu và bỏ đi.

Hắn đi pha espresso, quyết định không muốn uống espresso nữa, rồi thay đổi ý định và hóa phép cho espresso trở lại chỉ để nhận ra mình đã chẳng muốn uống ngay từ đầu rồi. Hắn hầm hập quay về chỗ Aziraphale, người vừa khám phá ra cách bật ti vi.

“Ta giàu hơn. Người nghèo bỏ xừ.”

Aziraphale ngẩng lên nhìn hắn, lại cái ánh nhìn mềm dịu ấy, “Phúc cho những người nghèo.”

“Hừ!” Crowley vung hai tay lên trời và quay đi kiếm bạc hà để làm một cốc mojito. Cần ngay một ly tiếp sức cho việc chống đỡ tình huống.

“Chúng ta không thể bị ốm. Nên cái vụ lúc ốm đau không áp dụng được,” hồi lâu sau hắn nói, ngà ngà say sau ly mojito cùng rum nặng.  Rum hơi ngọt so với khẩu vị của hắn nhưng giờ hắn chỉ có ngần ấy thôi.

Aziraphale ngẩng lên, vẫy hắn, “Vào xem truyền hình với tôi này. Là một phần mới của cái chương trình Dr Who gì đó và tôi thấy anh nam chính này trông giống anh ghê cơ.”

“Ta đã bảo ngươi rồi, thiên thần kia, chúng ta không phải vợ chồng và ta còn lâu mới giống cái thằng chết bầm kia nhé. Nhìn đi. Tóc tai nâu xù phồng phồng và còn cái bộ đồ dở hơi gì kia?”

“Thân mến lại nói nhảm rồi.”

“Ờờờờ. Tại Rum chứ tại ai.”

“Tôi nghĩ phần này nên được tính vào lúc ốm đau. Kể cả không tính, thì anh cũng đã dẫm lên đất thánh vì tôi rồi. Đó là nghĩa cử cùng tận của ‘lúc ốm đau cũng như mạnh khỏe’.”

Crowley hậm hực, “Đấy không p…phải nghĩa cử gì hết. Ta đã yêu ngươi cả…ngàn năm về trước rồi. Ngàn vạn năm. Bạt ngàn năm.”

Khuôn mặt của Aziraphale xô ra một nụ cười ấm áp. “Thật ư?”

“Ự ự ự,” Crowley hầm hừ, “Ừ. Cơ. Đừng có đi khoe xung quanh đấy. Hỏng hết cả uy danh đầu gấu của ta. Ác quỷ không có mấy trò ái tình yêu đương ướt át này đâu.”

Aziraphale vươn tay quàng quanh eo Crowley. Crowley đã không nhận ra hắn bị kéo ngày một gần vào phòng cho đến khi hắn thực sự bị thiên thần ấp vào tới bến, Aziraphale dễ dàng ngoắc và ném hắn lên chiếc ngai vàng bên cạnh y để Crowley phải ở trong tầm ôm ấp.

Crowley liếc nhìn Aziraphale. “Ta ghét ngươi. Ngươi làm ngực ta bị xoắn quẩy.”

Aziraphale đặt một nụ hôn lên trán Crowley, một nụ hôn tựa ánh dương tươi đẹp của một buổi chiều hạ thanh sạch nhất trên cõi đời này. Và vì một lẽ không lý giải nổi, Aziraphale có hương tựa sách cũ dù giờ đây hầu hết những cuốn sách cũ của y đều đã mới trở lại và Crowley không nhận ra mùi hương này có ý nghĩa gì tới khi hắn đứng trên đống đổ nát của nơi hắn tưởng sẽ trường cửu cùng thế gian.

“Ta không thích bị xoắn quẩy trong người đâu.”

“Thì tỉnh rượu đi nào,” Aziraphale khuyên.

Crowley rít lên đầy bực dọc. Hắn đang thích cảm giác rỗng não và thư giãn đầu óc này. “Thế sao ngươi không phát rồ lên vậy thiên thần? Mấy ngày trước còn ỉ ôi là không thích ta cơ mà?”

Crowley lọt thỏm vào ghế sâu tới nỗi Aziraphale có thể tựa má lên đỉnh đầu tên quỷ. Crowley sẽ chối từ cử chỉ ấy, nhưng Aziraphale rất ấm mà rắn thì ưa nhiệt độ cao. Chỉ là một sự biện minh trơ tráo của hắn thôi. Nhưng rõ ràng là nhà đã cháy và chuột đã ló mặt ra ở cái đoạn “yêu chính kẻ thù truyền kiếp của mình,” vì vậy tất cả những điều dối trá này đối với bản thân hắn có chút nửa vời.

“Tôi đã suy nghĩ rất nhiều khi tận thế gần điểm,” giọng của Azraphale có phần nhút nhát và nhỏ bé và lắp bắp và lố bịch và sự lố bịch trong cách diễn đạt của y khiến Crowley gác chân lên đệm chiếc ngai và ép mình lại gần Aziraphale hơn. “Tôi đã phát khùng khi quay lại tiệm sách và tất cả những gì còn sót lại là tập sách anh cứu được hồi ở Blitz. Tôi hoảng lên, gọi cho Anathema và hỏi cô ấy liệu Agnes Nutter còn có lời tiên tri nào dành cho đôi ta không,” giọng y đột nhiên toác ra đầy giận dỗi, “Cô ấy cười vào mặt tôi.”

“Dòng đĩ,” Crowley rít.

Aziraphale chọt hắn, “Ngoan nào, cô ấy là bạn chúng ta mà.”

“Bạn của ngươi thì có.”

“Chúng đến dự đám cưới của cô ấy đấy.”

“Ta bị ép dự nhé.”

“Anh dự bởi vì cô ấy mời anh.”

“Ta bị mời trong khủng hoảng.”

“Đừng có dỗi thế, anh dỗi lúc say làm người ta mệt lắm.”

Crowley bỏ qua điều đó và tập trung vào giọng nói của thiên thần.

“Cô ấy bảo tôi nếu sau sáu ngàn năm mà tôi vẫn không hiểu ra được thì sách tiên tri phỏng có ích lợi gì nữa,” Aziraphale thở dài, “Cô ấy nói đúng lắm.”

“Tttthế người quyết sao?” Crowley khè khè, lưỡi nặng vị rum.

“Quyết định là tôi yêu anh lắm,” Aziraphale đơn thuần nêu lên, “rằng từ trước đến nay tôi lúc nào cũng yêu anh và tôi bỏ qua việc đó bởi tình yêu này quá đỗi thuần túy và tự nhiên với tôi. Như hơi thở của những tạo vật cần khí trời để tồn tại vậy. Và rồi tôi nhận ra tôi đã phải gồng gắng đến nhường nào để giấu kín tình yêu của tôi khỏi anh. Khi tôi ngừng giấu diếm, mọi thứ như giãn ra vậy.”

“Nên ngươi quyết định hai chúng ta đã kết hôn suốt 6000 năm?”

“Không, trong cõi vĩnh hằng này đôi ta là nhiều thứ của nhau hơn và kể cả khi chúng ta là kẻ thù truyền kiếp chúng ta vẫn đồng hành cùng nhau. Nên. Tôi muốn mọi thứ mãi như thế, nếu anh ưng thuận,” Aziraphale nói, giọng lại cứng nhắc như thường lệ.

“Ừm chà,” Crowley ngâm nga, nhận ra giấc ngủ kéo đến dễ dàng hơn khi hắn ôm trong tay vị thiên thần thay vì cố gắng lìa xa y.  “Bạn đồng hànhhhh. Ta ưng đó.”

“Tôi yêu anh, Crowley.”

“Chắc là ta cũng yêu ngươi, thiên thần. Aziraphale. Không nói nữa, cảm giác nói nữa thành ra ta lại đang có quan hệ anh em với thằng cha Gabriel ấy.”

Âm thanh ngọt ngào từ nụ cười của một thiên thần cùng niềm vui thuần khiết và nụ hôn mềm mại áp vào trán, vào chóp mũi, vào khẽ trên môi đã dỗ dành Crowley vào giấc ngủ. Sự sáo rỗng lẫn ủy mị đến vô cực.

Hắn yêu cái cục lông ngốc nghếch này.

 

… Tôi trao người niềm tin này mọi ngày suốt đời tôi.”

 

 

Hết

3 bình luận về “[Good Omens/Transfic] Chắp Đôi cánh, Nâng Đàn hạc, Lắp Con Tim (tất toàn) Bình luận về bài viết này

Bình luận về bài viết này